Kỹ thuật trồng, chăm sóc và giá trị, cách sơ chế thạch hộc tía

Thạch hộc thường trồng trên những loại giá thể phù hợp gồm mùn cưa cây thông, hạt đá vôi trộn mùn cưa; gạch vụn trộn mùn cưa, vỏ trấu trộn vỏ cây; mảnh gỗ vụn; đá trân châu…

Theo từ điển Bách khoa dược học của Việt Nam (1999), “Thạch hộc” (Dendrobium nobile Lindt) có tên khác là Kim thạch hộc. Họ Lan (Orchidaceae) là cây phụ sinh trên thân gỗ hay vách đá, cao 30 – 50cm, thường mọc thành bụi. Thân hơi dẹt, có rãnh dọc, phía trên hơi dày hơn, có đốt dài 2,5 – 3cm, có vân dọc. Lá mọc so le thành dãy đều ở hai bên thân, thuôn dài, hầu như không cuống, đầu lá hơi cuộn hình mỏng, có 5 gân dọc, dài 12cm, rộng 2 3cm, cụm hoa ở kẽ lá.

hạch hộc là cây phụ sinh cận nhiệt đới. Phần lớn Thạch hộc sinh trưởng tốt trong điều kiện nhiệt độ bình quân năm 180C-210C, nhiệt độ bình quân tháng 1 trên 80C, lượng mưa năm trên 1.000 mm, độ ẩm tương đối không khí trên 80%. Ở nơi bán râm, bán nắng, Thạch hộc phụ sinh trên khe đá có nhiều đài tiên và trên vỏ cành thông xù xì có chất lượng tốt.

Thời vụ trồng Thạch hộc có thể trồng vào các tháng 3-4, khi trời ấm dần, có mưa xuân, độ ẩm cao, có lợi cho việc kích thích chồi nách phát triển và mọc rễ khí sinh để hút nước và thức ăn nuôi chồi.

Cũng có thể trồng vào cuối thu (tháng 9-10), đảm bảo yêu cầu sinh trưởng của rễ, nhưng chất lượng, số lượng, tốc độ ra rễ không bằng trồng vào vụ xuân.

Cây con được thuần hoá tốt, ở nơi có điều kiện che râm tốt (như trồng trong giàn che) có thể trồng quanh năm.

Thạch hộc thường trồng trên những loại giá thể phù hợp gồm mùn cưa cây thông, hạt đá vôi trộn mùn cưa; gạch vụn trộn mùn cưa, vỏ trấu trộn vỏ cây; mảnh gỗ vụn; đá trân châu…

Có 3 cách trồng

+ Trồng trong giàn che lớn, trồng trong giàn hoặc trồng trên đất

– Nếu trồng trong giàn thì trong giàn che làm các giá đỡ bằng sắt hoặc bằng tre trúc rộng 1-2m, đặt cách mặt đất 30-50 cm, trên giá rải giá thể 8-10 cm.

– Nếu trồng trên đất: trên mặt đất rải 1 lớp đá hoặc các vật rắn hút ẩm tốt rộng 1-2 m, trên mặt đất phủ giá thể dày 8-10 cm.

Cách trồng này dễ kiểm soát nhiệt độ, dễ chăm sóc, chống sâu hại, năng suất cao, nhưng thiếu nắng và khí trời thiên nhiên, sau 4-5 năm nên thay 1 lần, giá thành tương đối cao.

+ Trồng lập thể trên tường: đây là cách trồng mô phỏng thiên nhiên. Dùng gạch kê thành tường cao 1-2 m, trong các kẽ hở của gạch nhét đầy bã mùn rồi tưới ẩm lên tường. Sau đó trồng các hom Thạch hộc đã thuần hoá vào các khe tường. Cách làm này tiết kiệm đất, giá thành rẻ, nhưng ở chân tường thiếu ánh sáng, cây phát triển kém.

+ Trồng trên cây tự nhiên: trong rừng cây lá rộng, chọn cây thân to, ẩm, tán xum xuê, vỏ cây xốp, đem hom đã luyện buộc vào chỗ lõm trên thân, trát phân trộn bùn vào gốc, rồi dùng dây thừng bằng cỏ buộc vài vòng để cố định cây con bám vào thân cây rừng.

Kỹ thuật trồng

– Luyện cây con: phải luyện cây con 2-3 tuần trước khi trồng. Lấy cây con từ bình chứa đặt vào nơi có điều kiện gần tự nhiên, để cây mọc khoẻ, lá phát triển bình thường, rễ dài trên 3 cm, thân thịt có 3-4 đốt, mọc được 4-5 lá, có 3-5 rễ, vỏ rễ trắng có đốm xanh, không có rễ đen, thì đem ra trồng.

– Nhổ cây khỏi bình: Nhổ cây con kèm theo giá thể, đem rửa sạch giá thể, rửa lại bằng nước sạch. Cây nuôi cấy mô rễ trần hoặc ít rễ, sau khi được rửa sạch, đem ngâm phần rễ vào dung dịch ABT nồng độ 100mg/l trong 15 phút. Sau khi cây con ngâm xong được rửa sạch, ngâm vào dung dịch đa khuẩn linh 1000 lần trong 10 phút, sau đó đem cây con đặt vào chỗ râm mát, để ráo nước, chờ cho rễ con chuyển hết thành màu trắng thì đem cấy.

– Cấy cây con: trước khi cấy, phải đào hốc nhỏ của giá thể sâu 2-3 cm, đặt 2/3 phần rễ vào hốc rồi phủ giá thể để 1/3 bộ rễ nhô ra ngoài không khí. Cây rễ trần và cây có rễ nhỏ trồng riêng để dễ chăm sóc. Mật độ trồng từ 80-100 bụi/m2 (800.000 – 1.000.000 triệu bụi/ha), khoảng cách 8-10cm hoặc 10-12cm.

Kỹ thuật nhân giống

– Tách bụi: Vào vụ xuân hoặc thu, trước khi Thạch hộc ra chồi khoảng vào cuối tháng 3 đầu tháng 4, chọn những bụi tốt, không sâu bệnh, rễ phát triển mạnh, sử dụng cây 1-2 tuổi nhiều mầm, nhổ cả cây có kèm rễ, ngắt hết phần chết khô hoặc chồi gầy, ngắt bớt rễ con quá dài và rễ già, chỉ để lại 3cm, tách ra những bụi nhiều bụi theo số thân, mỗi bụi có 4-5 cành để trồng.

– Giâm cành: Vào cụ xuân, hè khoảng tháng 5-6, chọn cây 3 tuổi, lấy đoạn thân tròn, khỏe, cắt thành đoạn, mỗi đoạn 4-5 mắt, dài khoảng 15-20cm, cấy vào bột đá hoặc cát sông, cắm sâu đến mức không ngã, chờ đến khi có chồi nách, có rễ khí sinh mọc ra, có thể đem cấy. Khi chọn vật liệu nên sử dụng đoạn thân phần trên vì có ưu thế điểm.sinh trưởng, tỷ lệ sống cao, chồi nhiều, mọc nhanh

– Nuôi cấy mô: sử dụng lá, thân non, rễ Thạch hộc đem tiêu độc, cắt thành đoạn dài 0,5-1cm, sử dụng môi trường cơ bản MS hoặc B5, bổ xung chất kích thích NAA (0.05-1.5mg/l), IAA (0.2-1.0mg/l), 6-BA (1.0-5.0mg/l) và nhiều tổ hợp có kích tố khác nhau, pH nằm trong 5,6-6,0, nhiệt độ 250-280C, số giờ chiếu sáng 9-10h/ngày, cường độ 1800-1900lux, Sau 19 ngày, trên thân có nhú mầm nhỏ, sau một tháng, mầm nhỏ dài ra, ngọn tẽ ra, sau 2 tháng, chiều dài 2,0-2,7cm, sau 4-8 tháng có thêm nhiều chồi trong ống nghiệm có thể phát hiện trong nhiều môi trường pha chế khác nhau thì MS có tốc độ sinh trưởng tốt hơn B5.

Chăm sóc:

– Chiếu sáng: Đảm bảo độ chiếu sáng cho Thạch hộc 15000 lux. Do đó vào các mùa vụ khác nhau phải điều chỉnh cường độ cho phù hợp.

– Tưới ẩm: giữ độ ẩm tương đối của không khí khoảng 80%, giá thể khô, ướt xen kẽ nhau, khi tưới phải để ráo nước ngay trong ngày, tránh đọng nước làm thối rễ, thối cây. Nên tưới vào lúc 8-10 giờ sáng.

– Bón phân: Bón phân vào sáng sớm, không bón vào lúc nắng nóng. Định kỳ bón phân lên lá bằng phân cân bằng NPK theo tỷ lệ 1:1:1, kết hợp bón phân giàu lân, kali, theo tỷ lệ NPK 15:20:25, có thể phối hợp tưới nước phân chuồng. Cần ngừng bón phân 2-3 tháng trước khi thu hoạch.

– Trừ cỏ: hàng năm trừ cỏ 2 lần vào vụ xuân và vụ đông, vào mùa hè tránh nhổ cỏ, mà chỉ dùng kéo cắt cỏ, để không xâm hại đến cây.

– Điều tiết độ che râm: khi cây sinh trưởng độ che phủ tăng dần, vì vậy hàng năm vào mùa đông ngắt bớt cành quá dày, giữ độ che 60%. Vào mùa đông cũng có thể tháo dàn che để tăng độ chiếu sáng.

– Tỉa cành: hàng năm vào vụ xuân trước khi nảy chồi hoặc thu hái, cần tỉa bớt cành già và cành khô héo, cành quá dày, để xúc tiến chồi non phát triển.

– Phòng trừ sâu bệnh: diệt trừ kịp thời các loại bệnh: đốm đen, thán thư, thối thân, rỉ sắt, … và các loại sâu như rệp, ốc, nhện, sâu xám bằng việc phòng ngừa và sử dụng các loại thuốc phù hợp.

Thu hoạch và sơ chế
Thu hoạch: có thể thu hoạch quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa đông, thường sau trồng 1- 2 năm. Khi thu hoạch, dùng kéo cắt phần trên gốc, chỉ cắt thân già, để lại thân non tiếp tục phát triển. Khi cắt không cắt cả cây mà chỉ cắt từ phần trên của bộ rễ, để lại ít nhất 2 đốt để năm sau cây tiếp tục đâm chồi nảy lộc.

Sơ chế: Có ba cách sơ chế Thạch hộc làm thuốc gồm: chế biến tươi, khô và chế biến phong đấu

– Chế biến tươi: Thân tươi không cần ngắt rễ, lá, được sử dụng trực tiếp làm thuốc hoặc đem thân tươi khử rễ, lá rồi vùi vào cát để lưu giữ, nhưng phải đặt ở nơi thoáng mát và khô ráo

– Chế biến khô: Có 2 cách:

Cách 1: luộc bằng nước sôi. Đem cây tươi ngắt hết rễ và lá, ngâm nước vài ngày để lá và màng thối rữa sau đó dùng bàn chải quét hết màng mỏng của bẹ hoặc dùng trấu cọ hết màng. Sau đó dùng nước hấp khô, sau khi hong khô dùng rơm buộc lại rồi tiếp tục hong khô, nhưng không để lửa quá mạnh. Sau khi khô phun chút nước sôi rồi xếp thành từng lớp phủ rơm. Khi thân cây chuyển sang màu vàng ươm lại đem hong khô.

Cách 2: Dùng phương pháp hấp nóng. Sau khi làm sạch đặt cây vào nồi có cát rồi đun nóng đảo đi đảo lại, khi thấy bẹ lá khô, lấy ra đặt vào mâm gỗ rồi bó lại, loại bỏ bẹ lá rồi dùng nước rửa hết bùn cắt đem phơi khô đến đêm và sáng hôm sau đảo đi đảo lại vài lần, thân chuyển sang màu vàng ươm lại được làm khô tiếp.

– Chế biến phong đấu: Sau khi rửa sạch như trên ngắt hết lá và màng bẹ cắt thành đoạn dài 10cm cho vào nồi, phủ tro giữ nhiệt ở 800C, sau khi khô nhuyễn dùng tay bện thành rợ, rồi cho vào nồi ở nhiệt độ 500C, phần thân cây còn giữ được rễ tơ và ngọn thân gọi là phượng vỹ, có độ dài vừa phải được chế biến thành phong đấu, còn gọi là “Long đầu phượng vỹ” là tuyệt phẩm của Thạch hộc rỉ sắt làm thuốc. Chú ý không đun quá lửa để ảnh hưởng đến chất lượng.

– Thân tươi Thạch hộc và phong đấu Thạch hộc sẽ cung cấp cho các nhà máy chế biến sâu về thuốc thạch hộc.

Công dụng và hiệu quả kinh tế

Thành phần hóa học:

Thạch hộc làm thuốc có nhiều hoạt chất có hoạt tính sinh học quý. Thạch hộc tía giàu polysacarit thạch hộc, alkaloit thạch hộc, các acid amine và nhiều chất khoáng kali, canxi, magie, mangan, đồng, titan và nhiều nguyên tố vi lượng, trong đó polysacarit thạch hộc tới 22%, hàm lượng các acid amine như glutamic, asparagic, glucin chiếm tới 35% tổng lượng acid amine. Ngoài ra Thạch hộc tía còn có những hợp chất đặc thù như phenanthryn, bibenzyl , keton, ester và các chất nhầy, hợp chất amidon.

Trong thân Thạch hộc tía có hàm lượng alkaloit sinh học chiếm tới 0,3%, trong đó những chất amine đã được giám định cấu trúc gồm dendrobine, dendramine, nobilonine, dendrin, 6-hydroxy-dendroxine, shiunin, shihunidine và muối amoniac N-methyl-dendrobium, 8-epidendrobine, các chất này có vị hơi đắng.

Thân Thạch hộc có dầu bay hơi, trong đó có chất manool của hợp chất ditecpen chiếm hơn 50%.

Chỉ có kiểm nghiệm các thành phần hợp chất trên mới khẳng định được đúng là loài Thạch hộc tía, tránh nhầm lẫn với hàng giả.

Giá trị:

Trong cổ thư đông y Trung Quốc cách đây hơn 1.000 năm đã xác định ở Trung Quốc có 9 loại tiên dược được xếp theo thứ tự như sau: Thạch hộc, Tuyết liên, Nhân sâm, Thủ ô, Phục linh, Tùng dung, Linh chi, Ngọc trai, Đông trùng hạ thảo, trong đó Thạch hộc xếp đầu bảng.

Giá trị của thạch hộc có 2 loại công năng chủ yếu:

– Làm thuốc: Thạch hộc tía có giá trị độc đáo và công năng bảo vệ sức khỏe, đã trở thành sản phẩm bổ dưỡng từ lâu đời.

Nghiên cứu về dược lý hiện đại, Thạch hộc tiá có tác dụng chống ung thư, chống lão hóa, tăng sức đề kháng của cơ thể, làm dãn mạch máu và kháng đông máu, được sử dụng rộng rãi trong lâm sàng và làm các bài thuốc.

Thạch hộc tía có thể dùng đơn độc hoặc phối trộn với các dược liệu khác, đã có hơn 100 bài thuốc từ Thạch hộc được thị trường đón nhận. Trong dược điển có đề cập đến nhiều loài Thạch hộc nhưng tốt nhất vẫn là Thạch hộc tía.

– Làm thực phẩm: Cách sử dụng làm thực phẩm có nhiều cách như nấu súp với hồng sâm, với bách sa sâm lợi phổi sinh tân. Ngoài ra có thể nấu cháo Thạch hộc, trà Thạch hộc và nhiều món ăn khác.

Những năm gần đây công năng làm thực phẩm chức năng đã được khám phá thêm, là sản phẩm thiên nhiên an toàn và bổ dưỡng.

Thạch hộc tía có vị hơi ngọt hơi đắng vào 3 kinh phế, vị, thận, công năng tư âm, thanh nhiệt, chỉ khát, hư hao, gầy yếu, miệng khô.

Hiệu quả kinh tế:

Thạch hộc trồng một lần có thể thu hoạch 6 năm, đầu tư ban đầu có thể tốn kém, nhưng năm thứ 2 có thể thu hồi vốn, từ năm thứ 3 có lãi. Trong điều kiện thâm canh, năng suất tươi khoảng 5 tấn/ha/năm với giá bán khoảng 3 triệu đồng/kg, doanh thu đạt 15 tỷ đồng/ha/năm.

Thị trường tiêu thụ là khả quan, nếu chế biến sâu, thị trường càng lớn và hiệu qủa càng cao, bao gồm thị trường nội địa, thị trường Đông Nam Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và châu Âu, châu Mỹ.

Hiện nay chỉ có Trung Quốc đang phát triển rộng khoảng 7 năm nay, sản lượng đưa ra thị trường còn rất khiêm tốn, sau mấy năm nữa sản lượng có thể tăng lên nhiều, giá bán có thể giảm xuống, nhưng hiệu quả vẫn cao hơn nhiều so với nhiều cây trồng khác.
Sau nhiều lần thử nghiệm chưa thành công, nay Viện Nghiên cứu và phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây đã khảo nghiệm trồng Thạch hộc tía ở Hà Nội và Lâm Đồng trong điều kiện môi trường nhà lưới đảm bảo độ ẩm, nhiệt độ từ 8 – 38 độ C, cây Thạch hộc tía sinh trưởng phát triển tốt.

Hy vọng cây Thạch hộc tía có khả năng phát triển rộng rãi ở các vùng miền của nước ta, đem lợi ích đáng kể cho nông dân, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, xuất khẩu đem về ngoại tệ cho đất nước.